
Dự kiến nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực KHCN giai đoạn 2010 - 2015
Một số hoạt động và sản phẩm ứng dụng công nghệ mới được trực tiếp triển khai tại các đơn vị giai đoạn 2006 – 2010:
Nâng cao chất lượng và năng lực tự sản xuất phần lớn vật tư phụ tùng giảm nhập ngoại, chủ động trong sản xuất. Một số đơn vị quản lý đường sắt đã tổ chức khoán đến tận cung, tổ. Phần lớn các đơn vị thông tin tín hiệu đảm bảo hiệu suất khai thác thiết bị đạt trên 99%.
Cho ra đời các sản phẩm dịch vụ mới như: Đóng mới toa xe chở gỗ sấy, toa xe chở thép cuộn, xe chở ô tô, lắp ráp đầu máy trong nước, sản xuất các kết cấu thép và các sản phẩm cơ khí cho dân dụng và quân đội, khia trương báo Đường sắt điện tử ...
Nghiên cứu hoàn thành và tổ chức ứng dụng có hiệu quả 186 đề tài cấp nhà nước, cấp bộ và cấp tổng công ty, 399 đề tài, nhiệm vụ và hạng mục khoa học công nghệ cấp công ty và cơ sở (với tổng kinh phí đã thực hiện tạm tính cho nội dung nghiên cứu, không kể các dự án KHCN là 10 tỷ 723 triệu đồng)
Làm chủ hoặc tiếp cận các công nghệ mới như: Dùng công nghệ GPS kiểm soát tốc độ chạy tàu, ứng dụng thiết bị đuôi tàu, xây dựng và điều hành hệ thống bán vé điện toán, áp dụng các mềm quản lý, điều hành các trang web và mạng LAN của các đơn vị, quản lý và khai thác tốt các máy mới như máy chèn Áo, máy mài ray, các máy gia công robot, CNC, các công trình ray hàn liền, công trình hiện đại hóa thông tin tín hiệu, hệ thống giám sát cảnh báo đường ngang tự động và tà vẹt bê tông dự ứng lực...vv.
Đóng vai trò chủ chốt trong các tiểu ban KHCN các cấp, các hội thảo KHCN, tổ chức triển khai và áp dụng tốt hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO tại 30 đơn vị và tham mưu công tác đầu tư mua sắm máy móc thiết bị KHCN (khoảng 20 tỷ)
Chủ động tham mưu xây dựng chương trình cam kết tiết kiệm năng lượng của các đơn vị theo đúng chương trình chỉ đạo của nhà nước và của ngành với các biện pháp như ứng dụng công nghệ mới tiết kiệm năng lượng, cải tiến công tác quản lý tiêu dùng năng lượng, nâng cấp lưới điện, lắp máy bù cosw, tham mưu các giải pháp sử dụng hiệu quả hệ thống máy móc hiện có tại các đơn vị.
Giữ vai trò chủ chốt trong các ban chỉ đạo môi trường các cấp, tổ chức đào tạo cán bộ, phổ biến kiến thức, tăng cường thông tin về công tác môi trường trong ngành đường sắt, tổ chức nghiên cứu và thực hiện 10 đề tài về môi trường như các đề tài về micrropho, quản lý việc xả rác, xây dựng các công trình WC ở các ga, trồng cây, xây bể lắng nước thải ở 1 số hóa trường ga và các đơn vị công nghiệp…vv. Bổ sung các quy định về môi trường trong hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, áp dụng một số công nghệ mới để giảm thiểu tác động môi trường như: Dùng công nghệ tán thủy lực để giảm ồn, đốt ga thay than, Các công đoạn ô nhiễm phải làm ở nơi riêng, áp dụng các quy định về vệ sinh nơi làm việc...vv
Lực lượng cán bộ KHCN là hạt nhân tích cực trong các phong trào lao động sáng tạo, Không ít đơn vị đã đạt bình quân 10 người có 1 sáng kiến, 5 năm qua, có 4094 sáng kiến có giá trị đã được áp dụng trực tiếp vào sản xuất kinh doanh làm lợi 31,783 tỷ đồng, trích thưởng 1 tỷ đồng.
Để đáp ứng được các nhiệm vụ chính của ngành trong thời gian, lực lượng KHCN cần tập trung vào các vấn đề sau:
1. Tiếp trung tham mưu các biện pháp tốt nhất để thực hiện chiến lược, quy hoạch, phát triển ngành GTVT ĐS trong giai đoạn 2010 - 2020 như: Tham mưu để các đơn vị trong ngành xác định rõ mũi nhọn nghiên cứu trong từng giai đoạn, đảm bảo phục vụ hiệu quả nhất chiến lược phát triển chung. Chú trọng các tham mưu đẩy mạnh khoa học ứng dụng và phát triển nội lực, coi phong trào sáng kiển cải tiến là môi trường tốt để mỗi cá nhân trưởng thành, cống hiến trong công tác KHCN.
2. Đặc biệt trong giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi mô hình tổ chức từ doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Để đảm bảo ngay sau khi triển khai mô hình mới, công tác khoa học công nghệ có thể xác định chương trình hành động thật chi tiết, cụ thể, tạo sự chuyển biến tích cực trong ngành, ngoài những vấn đề hiện nay đang tập trung chúng ta cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
+ Tham mưu chính sách để tất cả cổ đông, người lao động cùng chung một suy nghĩ, cùng chủ động chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của ngành.
+ Tìm kiếm và nhanh chóng triển khai các ứng dụng công nghệ mới để đưa SXKD của ngành hòa nhập nhanh trong môi trường mới.
+ Chủ động mở rộng hơn nữa các hoạt động liên kết với các nhà khoa học trong và ngoài ngành nhằm tăng cường sự hợp tác, ứng dụng các sáng chế, bí quyết công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của ngành.
Khuyến khích lao động sáng tạo, đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ trong ngành không chỉ là động lực thúc đẩy cá nhân người lao động hăng say thi đua sản xuất mà còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, vững vàng hơn trong cạnh tranh. Là nhân tố quan trọng có tính quyết định cho việc thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ X Đảng bộ Đường sắt Việt Nam. Mặc dù trước mắt còn nhiều khó khăn nhưng lưc lượng cán bộ khoa học công nghệ trong ngành luôn tin tưởng vào sự chỉ đạo sáng suốt của lãnh đạo và đảng bộ ngành, mong được đóng góp nhiều hơn nữa để có thể tạo nên sự bứt phá trong SXKD và đưa ngành cất cánh, cũng là giải pháp tốt nhất để có được môi trường tự rèn luyện, đứng vững và đi lên trong cuộc cạnh tranh và hội nhập quyết liệt đang diễn ra từng ngày từng giờ.
Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước 4,3 vạn cán bộ công nhân viên ngành ĐS, đó chính là câu trả lời thiết thực nhất của lực lượng cán bộ KHCN ngành Đường sắt Việt Nam.
BAN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ