ĐSVN tăng cường nội địa hóa và đẩy mạnh phát triển đầu máy xe lửa giảm khí phát thải
Sáng ngày 26/12, tại Hà Nội, Tổng Giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam Hoàng Gia Khánh đã có buổi tiếp và làm việc với lãnh đạo Công ty HH Đầu máy Tư Dương CRRC (CRRC Tư Dương), Công ty HH Đầu máy điện Chu Châu CRRC (CRRC Chu Châu) và Công ty HH Thương mại Tam Nguyên Hà Khẩu, Trung Quốc.
Nội dung buổi làm việc về khả năng thúc đẩy hợp tác giữa các bên nhằm phát triển các sản phẩm đầu máy diesel giảm khí phát thải, tiết kiệm nhiên liệu, có khả năng chống va đập cao, đồng thời hỗ trợ Đường sắt Việt Nam tăng cường năng lực nội địa hóa, từng bước đẩy mạnh phát triển công nghiệp đường sắt.
Chia sẻ về kinh nghiệm của Trung Quốc, Chủ tịch CRRC Tư Dương, ông Trần Chí Tân cho biết Trung Quốc có một lộ trình nhằm đáp ứng các yêu cầu về giảm khí phát thải của Công ước Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), trong đó ưu tiên loại bỏ các đầu máy diesel không đáp ứng tiêu chuẩn về khí thải hiện nay, và giữ lại những đầu máy diesel hiện đại đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Chủ tịch CRRC Tư Dương cũng đề xuất trong tình hình hiện nay, phía Việt Nam có thể chia theo khu vực: Các thành phố lớn và khu trung tâm ưu tiên sử dụng năng lượng xanh, còn khu vực nông thôn miền núi có mật độ dân cư thấp, mức độ ô nhiễm thấp hơn, có thể tiếp tục duy trì sử dụng các đầu máy diesel.
Về việc đẩy mạnh nội địa hóa các máy móc, vật tư đường sắt, ông Trần cho biết Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm và sẵn sàng chia sẻ, hợp tác với phía Việt Nam. Tuy nhiên, ông lưu ý, cần đánh giá thận trọng về nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm này của thị trường, tránh tình trạng vốn đầu tư nhiều, mà sản lượng sản xuất ra ít, do dung lượng thị trường không đủ lớn.
Kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo 2 bên nhất trí sẽ tiếp tục các cuộc trao đổi, làm việc ở cấp độ chuyên môn, kỹ thuật, nhằm thúc đẩy việc hợp tác ngày càng sâu rộng, thực chất hơn.
Từ năm 2001 đến nay, CRRC Tư Dương đã hợp tác cung cấp nhiều đầu máy xe lửa cho Tổng công ty ĐSVN. Các sản phẩm của Tư Dương được đánh giá là phù hợp và hiệu quả với tình hình thực tiễn của đường sắt Việt Nam.